(BAVN Online) LTS. Vậy là đã tròn 10 năm kể từ
ngày bài báo “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Khúc quân hành xuyên thế kỷ” của
NSND Đào Trọng Khánh viết riêng cho Báo ảnh Việt
Nam nhân dịp mừng Đại
tướng Võ Nguyên Giáp tròn 90 tuổi vào năm 2001. Năm 2010 này Đại tướng
bước sang tuổi 100, và cũng là dịp cả nước đang sôi nổi các hoạt động hướng
tới Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Nhân dịp này, một lần
nữa, Báo ảnh Việt Nam xin được trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài báo
đầy tâm huyết mà NSND Đào Trọng Khánh đã viết về vị tướng tài của dân tộc
– Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vi tướng
lừng danh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. (Ảnh: Trần Định)
|
 Đại tướng trong ngày vui trở lại
thăm chiến khu xưa. (Ảnh: Trọng Thanh)
|
 Ngày 6/4/1994, Đại tướng trở lại thăm
căn hầm của viên tướng Pháp bại trận De Castries ở Điện Biên
Phủ. (Ảnh: Trọng Thanh)
|
 Thay mặt Trung ương Đảng và Chính
phủ, Hồ Chủ Tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên
Giáp nghiên cứu kế hoạch tác chiến và mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
(Ảnh: Tư liệu TTXVN)
|
 Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ
tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác
chiến Chiến dịch Điên Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
|
 Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát trận địa
Điện Biên Phủ lần cuối trước khi quân ta nổ súng. (Ảnh: Tư liệu
TTXVN)
|
 Ban Biên tập Báo ảnh Việt Nam báo
cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế hoạch ra số báo đặc biệt chào mừng
Kỉ niệm 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (tháng 5/2009).
|
 Ban Biên tập và các cán bộ, phóng
viên Báo ảnh Việt Nam chụp ảnh kỉ niệm với gia đình Đại tướng Võ
Nguyên Giáp vào ngày 27/04/2009.
|
 Bút tích của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đề tặng Báo ảnh Việt Nam nhân dịp Kỉ niệm 55 năm Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
|
Một ngày đầu năm 2001,
ông nói vui với chúng tôi: “Mình là một người lữ hành xuyên thế
kỷ!”.
Ông sinh ngày 25 tháng 8 năm
1911 – năm Tân Hợi – năm mà cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Hoa bùng
nổ.
Quê ông ở làng An Xá, huyện Lệ
Thủy, Quảng Bình. Từ một đứa trẻ nghèo ở vùng quê “gió Lào, cát trắng”, đi
học rồi lớn lên đi làm cách mạng, ông đã trở thành một tướng lĩnh kiệt
xuất của Cách mạng Việt
Nam
. Cuộc đời và sự nghiệp của
ông gắn liền với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, gắn liền với lịch sử
xây dựng, trưởng thành và phát triển của lực lượng Quân đội Nhân dân Việt
Nam. Ông là học trò xuất sắc, gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là bạn
chiến đấu thân thiết của những lãnh tụ Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Ông nhớ nhiều đến cố đô Huế,
nơi ông từng là học trò xuất sắc của trường Quốc học, nơi ông có những
người bạn chí thiết sau này là những nhà hoạt động cách mạng xuất sắc như
Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Nguyễn Khoa Văn.
Năm 1924, nhà chí sĩ Phan Bội
Châu bị chính quyền thực dân phong kiến bắt giam và đưa về an trí ở Huế.
Ông thường cùng bạn bè lui tới căn nhà của cụ nghe những lời tâm huyết,
đọc những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Phan. Ông ham đọc và hiểu sâu
sắc những điều trong sách. Cụ Phan quý ông, có lần nói: “Khi qua đời, ta
sẽ để lại tủ sách này cho Giáp”.
Bị đuổi học vì tham gia vụ bãi
khóa tháng 4 năm 1927 ở trường Quốc học, ông tự học, viết báo “Tiếng Dân”
của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng rồi gia nhập Đảng Tân Việt. Năm 1930,
ông bị bắt và kết án, đưa về quê quản thúc.
Nghe kể lại: “Một ngày vào mùa
mưa bão, nước sông Kiến Giang lên to, ngập cả vào gần nhà, dân làng thấy
bạn thân của ông, nhà cách mạng Nguyễn Chí Diểu đi một chiếc thuyền nhỏ
vào đón ông. Đó là ngày ông bắt đầu bước chân vào cuộc đời cách
mạng”.
Ông ra Hà Nội, tự học tự làm,
đỗ thủ khoa trong kỳ thi tổng hợp học sinh giỏi toàn Đông Dương, lần lượt
lấy bằng tú tài triết học, rồi bằng cử nhân luật với luận án xuất
sắc.
Ông vừa dạy học, vừa làm báo,
vừa hoạt động cách mạng. Hết giờ dạy ở trường Thăng Long, ông viết cho các
báo “Lao động, Tin tức”, “Tiếng nói của chúng ta”, cả tiếng Việt và tiếng
Pháp. Trong thời gian này ông Trường Chinh cùng với ông viết cuốn “Vấn đề
dân cày” dưới hai bút danh Qua Ninh và Vân Đình. Trong phong trào Đông
Dương đại hội, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban báo chí Bắc Kỳ.
Một buổi chiều, trên đường Cổ
Ngư, Bí thư Trung ương lâm thời Hoàng Văn Thụ giao nhiệm vụ cho ông cùng
với ông Phạm Văn Đồng sang Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh đạo của Đảng ở
nước ngoài. Bên bờ Thúy Hồ thơ mộng, các ông gặp một người đứng tuổi, giản
dị trong bộ quần áo Tôn Trung Sơn màu xám. Đó là Nguyễn Ái Quốc, người của
Quốc tế cộng sản, là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Cuộc hội ngộ đã để lại ấn tượng
sâu sắc trong cuộc đời cách mạng của ông. Ông không bao giờ quên lời dặn
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Mihh: “Làm cách mạng phải dĩ
công vô thượng - việc công trên hết!”.
Suốt cuộc đời làm tướng, cầm
quân đánh giặc, ông đã sống và làm việc theo lời dặn ân cần của Bác Hồ -
Người ông vô cùng yêu mến và kính trọng.
Tháng 5 năm 1941, tại rừng Pác
Bó thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 8 khóa 1 dưới sự chủ trì lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã quyết định thành lập
Việt Nam Độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh. Võ Nguyễn Giáp được
cử phụ trách Ủy ban Quân sự Tổng bộ Việt Minh, xây dựng các lực lượng vũ
trang chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Bước ngoặt quan trọng đưa ông
trở thành vị tướng lãnh đạo quân đội nhân dân đó là sự kiện ra đời Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Tháng 12-1944, ông được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trao nhiệm vụ thành lập tổ chức này. Sau ít ngày chuẩn bị,
ngày 22-12-1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo ở châu Nguyên Bình, tỉnh Cao
Bằng, được sự ủy nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông thành lập Đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam
ngày nay.
Dưới sự chỉ huy trực tiếp của
ông, chỉ sau hai ngày làm lễ thành lập, đội quân non trẻ đã đánh thắng hai
trận đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần thuộc Cao Bằng.
Võ Nguyên Giáp được cử làm Ủy
viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, Tổng chỉ huy các đội Việt Nam Giải
phóng quân và là Ủy viên Ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng Việt Bắc,
Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ông vào Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam.
Thay mặt Ủy ban Quân sự, Võ Nguyên Giáp đã ký mệnh lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngay chiều 16-8-1945 bế mạc đại hội, dưới bóng cây đa cổ thụ Tân Trào, một
đơn vị giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy đã làm lễ xuất
quân tiến về đánh Nhật ở thị xã Thái Nguyên. “Lúc này thời cơ thuận lợi đã
tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập” - lời Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc lâm bệnh nặng
đã dặn riêng Võ Nguyên Giáp ở lán Nà Lừa trước khi họp Quốc dân đại hội,
vừa là tình cảm thiêng liêng vừa là mệnh lệnh thôi thúc vị tổng chỉ huy
quân đội trên đường hành quân tiến về Hà Nội.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng
Tám thành công. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
thành lập. Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng, bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ.
Quân Pháp núp bóng quân Anh nổ
súng tái xâm lược Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh với phái đoàn Pháp nhằm
bảo đảm hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ, ông dẫn đầu phái đoàn Việt Nam tại
Hội nghị Trù bị ở Đà Lạt. Ông đã phát biểu trước phái đoàn Pháp những lời
như sau: “Các chiến sĩ Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn trong cuộc
chiến đấu giành tự do cho Tổ quốc, chỉ có thể chấp nhận hòa bình trong
công bằng và danh dự… Nhân danh một dân tộc đã có hàng ngàn năm tôi luyện
trong lao động và đấu tranh, tôi khẳng định với các ông rằng: Ngày nào Nam
Bộ còn bị tách khỏi Việt Nam thì ngày ấy mỗi người dân Việt Nam còn không
ngừng dốc hết nghị lực của mình vào cuộc đấu tranh để đưa Nam Bộ trở về
trong lòng Tổ quốc. Nếu tiếng nói của chúng tôi không được đáp lại, bản
Hiệp định không được tôn trọng thì chúng tôi sẽ không chịu trách nhiệm về
tất cả những gì xảy ra trong tương lai… Lịch sử sẽ chứng minh lời nói của
chúng tôi là đúng…”.
Và lịch sử đã chứng minh những
lời nói của ông.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Ông được cử làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc
gia và Dân quân tự vệ.
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ông ra lệnh mở đầu cuộc tổng giao chiến trên tất cả các
thành phố, thị trấn có quân xâm lược, đánh địch ở khắp nơi. Trận đánh 60
ngày đêm trong lòng Thủ đô Hà Nội là một trong những trận đánh hào hùng
nhất mở đầu cho cuộc kháng chiến thần thánh 9 năm của dân tộc.
Ngày 2 tháng 1 năm 1948, ông
được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đạinbsp;
tướng.
Những năm đầu kháng chiến, ông
đã sáng tạo một phương thức chiến đấu phù hợp để vừa tiêu diệt địch, vừa
xây dựng lực lượng, triệt để dùng du kích vận động chiến, đánh vận động
với lực lượng chủ lực nhỏ. Từ thực tiễn chiến tranh, ông đã tìm ra cách
đánh duy nhất tránh cho một đội quân non trẻ không bị một kẻ thù có sức
mạnh áp đảo tiêu diệt.
Suốt 9 năm kháng chiến, quân
đội Nhân dân Việt Nam lớn mạnh không ngừng, đánh bại chiến lược đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp, giành quyền chủ động chiến lược trên chiến
trường chính, tổ chức những chiến dịch tiến công và phản công với quy mô
ngày càng lớn, dẫn tới chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là
chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đặt một “cái mốc chói lọi bằng vàng”,
đại phá thành trì của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Trong kháng chiến 9 năm, dấu ấn
của ông đặc biệt nổi bật ở hai quyết định lớn có ý nghĩa sống còn. Đó là
quyết định thay đổi mục tiêu tiến công từ Cao Bằng xuống Đông Khê trong
Chiến dịch Biên giới (1950), và quyết định thay đổi phương châm tác chiến
chiến dịch từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”
trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ông thường nói: “Đây là một quyết định khó
khăn nhất trong cả cuộc đời cầm quân đánh giặc của tôi!”.
Trong cuộc trường chinh chống
Mỹ cứu nước, với cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông đã góp phần chỉ đạo xây dựng quân đội tiến
lên chính quy hiện đại, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước, mở đường Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam và đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ.
Mùa xuân năm 1975, chiến dịch
Hồ Chí Minh đại thắng, Chính quyền Ngụy hoàn toàn sụp đổ, buộc phải đầu
hàng vô điều kiện trước thế tấn công thần tốc vũ bão của đội quân cách
mạng. Từ Sài Gòn, tin chiến thắng báo về Tổng hành dinh ở Thủ đô Hà Nội.
Vị tướng già của hai cuộc chiến tranh giải phóng bồi hồi nhớ lại: “Tất cả
mọi người nhảy lên, reo lên, ôm hôn nhau… một cảnh tượng vui mừng không gì
tả được. Các đồng chí trong Bộ Tổng tham mưu ôm chầm lấy chúng tôi và tất
cả các chiến sĩ có mặt. Tất cả đều nghẹn ngào. Có người đã khóc. Đây là
giây phút của cả một đời - Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ đã kết
thúc!”.
Ngoài tài năng của một vị tướng
lỗi lạc, ông còn là một nhà khoa học, một nhà giáo dục tâm huyết. Năm
1978, là Phó Thủ tướng Chính phủ, ông chuyên tâm chỉ đạo công tác khoa
học, giáo dục. Cuốn sách “Mấy vấn đề về khoa học giáo dục” của ông là một
tác phẩm có giá trị lớn về tư tưởng trong thời kỳ mới.
Tiếp thu và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh, ông cùng toàn quân và toàn dân làm nên những võ công lừng
lẫy. Khi không còn đảm nhiệm các chức vụ của Đảng và Nhà nước, ông dành
tâm lực và thời gian nghiên cứu, chủ biên công trình khoa học: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” - một công trình lý luận rất
sâu sắc.
Ông là tác giả của những cuốn
sách nổi tiếng về quân sự như “Chiến tranh nhân dân, Quân đội nhân dân”,
“Chiến tranh giải phóng dân tộc vànbsp; Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” cùng
với nhiều cuốn sách khác bao gồm hơn 70 tác phẩm. Nhiều cuốn có tiếng vang
lớn, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Đặc biệt là những cuốn
hồi ức của ông về chiến tranh. Ông thực sự là một trong những nhà văn hóa
lớn của Việt Nam thế kỷ XX.
Nhắc đến sức mạnh Việt Nam đã
đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, ông nói:
“Nhờ vào sức mạnh của nền văn
hóa truyền thống, người Việt Nam đã biết kết hợp tinh thần quyết chiến giữ
nước với tài thao lược sáng tạo, xây dựng nên một học thuyết quân sự độc
đáo, học thuyết quân sự Việt Nam”.
Ông thường nhắc tới một cuốn
hồi kýnbsp; của ông về sự ra đời và trưởng thành của lực lượng quân đội
nhân dân Việt Nam, đó là cuốn “Từ nhân dân mà ra”. Ông chính là vị tướng
của nhân dân, từ nhân dân mà trưởng thành, làm nên sự nghiệp.
Suốt một cuộc đời gắn bó với
quân đội, ông vẫn giữ cho mình một tâm hồn trong sáng, thơ mộng, tràn đầy
tình yêu thương con người. Ông yêu thơ và nhạc, yêu những bản hành khúc
hào hùng của dân tộc trong suốt cuộc trường chinh chiến đấu vì độc lập tự
do. Cuộc đời ông là một khúc quân hành tuyệt đẹp – Khúc quân hành xuyên
thế kỷ, vang vọng mãi trong những bước đi lên của các thế hệ kế tục, vang
vọng mãi với thời gian./.
Bài: NSND
Đào Trọng Khánh - Ảnh: Trọng Thanh, Trần Định & TL
TTXVN |