Phạm Thị Huệ nổi tiếng không chỉ vì chị là một ca nương
tài sắc vẹn toàn, vừa hát hay vừa đàn giỏi, mà chị còn là người có công
gìn giữ bản sắc nghệ thuật ca trù, một loại hình nghệ thuật truyền thống
đặc sắc của Việt Nam vừa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại cần được bảo vệ.
Phạm Thị
Huệ là con gái đầu lòng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoa Hựu. Hồi mới 8 tuổi, Huệ
thi vào Nhạc viện Hà Nội, thấy cô bé đáng yêu, các thầy cô chọn Huệ về
khoa Nhạc cụ dân tộc rồi cho học đàn tì bà. Năm 1996, tức sau 15 năm kể từ
ngày theo học, Huệ tốt nghiệp rồi xin ở lại trường làm giảng viên môn tì
bà từ ấy cho đến nay.
 Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ biểu diễn cùng hai nghệ nhân ca trù
Nguyễn Thị Chúc và Nguyễn Phú Đệ.
|
 Bộ trưởng Văn hóa , Thể
thao và Du lịch với các nghệ sĩ ca trù
tham gia Liên hoan Ca trù lần
thứnbsp; nhất tại Hà Nội.
|
 Một lớp học ca trù do nghệ sĩ Phạm Thị Huệ đứng ra tổ
chức.
|
 Nghệ sĩ Phạm Thị
Huệ.
|
Con đường đến với ca trù
của Phạm Thị Huệ xem ra cũng khá đặc biệt, ấy là vào năm 2000, trong một
lần đang dạo chơi trên phố Bích Câu (Hà Nội) chị đã có cơ duyên được gặp
cụ Nguyễn Thị Chúc, một nghệ nhân nổi tiếng của làng ca trù Việt Nam, rồi
trở thành học trò của cụ. Bên cạnh đó, Phạm Thị Huệ còn được thọ giáo
những ngón đàn điêu luyện của đệ nhất danh cầm đất Bắc Nguyễn Phú Đệ, kĩ
thuật thanh nhạc truyền thống của nghệ nhân Phó Thị Kim Đức… những bậc kì
tài trong làng ca trù Việt Nam hiện nay.
Ca trù là
thứ nghệ thuật nổi tiếng rất kén chọn người chơi. Có người theo học từ lúc
5-6 tuổi nhưng mãi đến tận 17-18 tuổi mới tạm gọi là thành nghề. Trong khi
ấy, gần 30 tuổi Huệ mới tập tõm theo các cụ học ca trù nhưng có lẽ do nhờ
trời phú cho cái tư chất thông minh nên Huệ học một biết mười. Chẳng thế
mà sau 3 tháng truyền nghề cách ngắt hơi, nhả chữ, nghệ nhân Kim Đức đã
bảo: "Con học ba tháng bằng người ta học ba năm. Ta không còn gì để dạy
con nữa".
Huệ nhớ
lại, sau một thời gian bái sư học ca trù với lão nghệ nhân Nguyễn Thị
Chúc, vào một ngày cuối tháng 6 năm 2006 cụ gọi cô đến và bảo: "Lá vàng lơ
lửng trên cây chẳng biết khi nào rụng. Con cũng đã thành nghề, đến lúc làm
lễ mở xiêm y rồi đấy con ạ!". Nghe thầy bảo, chị mừng đến muốn khóc. Vậy
là sau bao lâu gian lao tầm sư học đạo, chị cũng đã được công nhận là một
nghệ sĩ ca trù. Hôm ấy cụ Chúc cũng cảm động không kém, cụ bảo: "Đã 60 năm
nay làng ca trù ta mới có một buổi lễ như thế này".
Buổi lễ mở
xiêm y của chị có cả các thầy như Giáo sư Trần Văn Khê, Phó Giáo sư Vũ
Nhật Thăng.... đến dự. Hôm ấy chị hát bài "Thề non nước", "Tỳ bà hành"...
Các thầy nghe xong ai cũng khen hay và cầu chúc cho chị luôn giữ được
nghề.
Sau buổi lễ
chị xin phép các thầy thành lập Câu lạc bộ ca trù Thăng Long (CLB) để góp
phần gìn giữ những tinh hoa ca trù mà cha ông ta để lại và cũng làm nơi
truyền dạy ca trù cho lớp trẻ để môn nghệ thuật này không bị thất truyền.
Từ đó đến nay CLB đã trở thành nơi lui tới thường xuyên của những người
yêu ca trù đất Thăng Long, và cũng tại đây chị đã đào tạo được khoảng gần
chục ca nương trẻ. Họ được người trong nghề đánh giá cao, và đó cũng chính
là phần thưởng quý giá nhất cho những nỗ lực không hề biết mệt mỏi của chị
trong suốt mấy năm qua.
Dẫu biết
theo nghiệp cà trù thời nay có lắm thứ khó khăn nhưng chị vẫn một mực theo
nghề. Chị nói: “Đã lỡ mang cái nghiệp vào thân thì phải theo cho đến
cùng”. Chính vì vậy mà từ bấy đến nay, chị như con tằm lặng lẽ rút ruột
nhả tơ gìn giữ từng câu hát của người xưa để lại.
nbsp;Hôm
rồi có dịp tôinbsp;đến thăm chịnbsp;tại nhà riêng, một căn nhà nhỏ đơn
sơ và bình dị nằm trong con ngõ nhỏ ở khu Khương Trung, Thanh Xuân, Hà
Nội. Nhà chẳng có gì ngoài chiếc tivi nhỏ, mấy chiếc đàn tì bà, đàn đáy và
đôi câu đối chữ Hán treo ở trên tường. Đời nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ ca trù
xem ra chỉ có vậy. Dẫu biết theo nghiệp ca trù thời nay có lắm thứ khó
khăn nhưng chị vẫn một mực đeo nghề.
Hôm nay
đây, khi được ngồi đối diện với chị, người ca nương xinh đẹp có khuôn mặt
sáng tựa trăng rằm và được nghe những lời tâm sự của chị tôi mới thấy được
hết nỗi lòng của người nghệ sĩ ca trù đất Thăng Long, đó là khát vọng được
gìn giữ và phát huy bộ môn nghệ thuật truyền thống của cha ông. Chính vì
vậy mà chị đã nguyện với lòng mình luôn cố gắng đem hết sức mình để gìn
giữ những giá trị âm nhạc truyền thống được coi là “quốc bảo” của dân tộc
Việt Nam.
Ca trù có
nhiều tên gọi khác nhau như hát cửa quyền, hát cửa đình, hát nhà
tơ, hát ả đào với nhiều hình thức diễn xướng.
Theo thư tịch cổ, ca
trù có hơn 100 làn điệu, nhưng nay chỉ còn lại khoảng 20 - 40 làn
điệu chính. Ngày 01/10/2009, ca trù đã được UNESCO công nhận là
Di sản văn hóa
phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân
loại. | nbsp;
Bài:
Thanh Hòa - Ảnh: Tất Sơn & Tư
liệu
nbsp;
|