Tin tức
Chủ tịch nước Lương Cường: Vai trò kiến tạo hòa bình của ngoại giao Việt Nam được thể hiện xuyên suốt các giai đoạn lịch sử
Chủ tịch nước Lương Cường đã tới dự và phát biểu chỉ đạo.
Tham dự hội thảo có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Ngoại giao, lãnh đạo ban, bộ, ngành Trung ương, các đồng chí lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử, bạn bè quốc tế, nhà khoa học trong nước và quốc tế.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết, cách đây tròn 50 năm, thắng lợi lịch sử của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “độc lập - thống nhất - hòa bình và phát triển” cho dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc và khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam cũng như nhân dân ưa chuộng hòa bình trên toàn thế giới, trong hành trình ấy, ngoại giao đã đóng vai trò hết sức quan trọng.
Điểm lại những thành tựu quan trọng của ngoại giao Việt Nam trong suốt những thập kỷ qua, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn cho rằng trước những biến chuyển to lớn của thời đại, ngoại giao Việt Nam đang có những đổi mới căn bản bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Từ bài học trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, Việt Nam sẽ tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế, nâng tầm đóng góp của Việt Nam vào việc bảo đảm an ninh, kiến tạo hòa bình trên thế giới.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kỳ vọng Hội thảo sẽ là diễn đàn trao đổi và đối thoại cởi mở, nơi các nhà nghiên cứu, học giả, nhà ngoại giao, các nhân chứng lịch sử, bạn bè quốc tế cùng thảo luận về vai trò kiến tạo hòa bình của ngoại giao, đặc biệt kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước là dịp cùng nhìn lại chặng đường đã qua với niềm tự hào sâu sắc, đồng thời chung tay cùng hướng tới tương lai.
Bày tỏ vui mừng đến dự Hội thảo trong những ngày tháng Tư lịch sử của dân tộc, Chủ tịch nước Lương Cường chỉ rõ mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù lớn hay nhỏ, nói chung đều trải qua những thời khắc mang tính bước ngoặt, ngã rẽ lịch sử quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình. Đối với Việt Nam, chiến thắng 30/4/1975 là một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử dân tộc. Từ đây, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối; dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên lịch sử mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhấn mạnh trong chiến thắng lịch sử đó có đóng góp to lớn của ngoại giao Việt Nam, Chủ tịch nước cho rằng nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử và những bài học sâu sắc từ chiến thắng 30/4/1975 đối với ngoại giao Việt Nam trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị, mang tính dân tộc và thời đại sâu sắc.
Chủ tịch nước khẳng định, nhìn lại lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam, chúng ta càng nhận thức rõ ràng hơn về vai trò rất quan trọng của công tác ngoại giao. Đặc biệt khi Bộ Chính trị năm 1969 ban hành Nghị quyết xác định “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược” thì ngoại giao đã trở thành công cụ quan trọng, góp phần phân hóa kẻ địch, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và lan tỏa tính chính nghĩa về cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam tới thế giới.
Tầm nhìn và tư duy sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối ngoại đã được đưa ra đúng thời điểm, rất phù hợp với bối cảnh quốc tế khi đó. Đặc biệt, sự nổi lên của các “dòng thác cách mạng”, nhất là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế, cùng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới là những điều kiện căn bản giúp ngoại giao Việt Nam kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Theo Chủ tịch nước, vai trò kiến tạo hòa bình của ngoại giao Việt Nam cũng được thể hiện xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, từ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đến xây dựng và phát triển đất nước trong thời bình. Trong đó, ngoại giao đã huy động được sự ủng hộ to lớn cả vật chất, tinh thần từ các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân tiến bộ trên thế giới, tạo nên phong trào quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và trong lịch sử thế kỷ XX, hiếm có cuộc đấu tranh của dân tộc nào lại quy tụ được sự ủng hộ rộng khắp, mạnh mẽ cả ở trong và ngoài nước như dân tộc Việt Nam.
Ngoại giao đã phối hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ với mặt trận quân sự và chính trị, mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, qua đó giành thắng lợi từng bước, tạo tiền đề đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đi đến toàn thắng. Trong đó có những cuộc đấu trí cam go trên bàn đàm phán Hội nghị Geneve năm 1954 và nhất là Hội nghị Paris (từ năm 1968 – 1973) đã trở thành đỉnh cao thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chủ tịch nước chỉ rõ, ngoại giao đã góp phần quan trọng trong tái thiết đất nước, triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong 40 năm Đổi mới, ngoại giao đã có nhiều đóng góp thiết thực vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một đất nước lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đến nay Việt Nam nằm trong tốp 35 nền kinh tế hàng đầu về quy mô GDP, tốp 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Từ một nước bị bao vây, cô lập, Việt Nam nay đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới 34 nước có quan hệ đối tác toàn diện trở lên, trong đó có đầy đủ các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ các thành viên G7, 18/20 nền kinh tế G20, tất cả các nước ASEAN.
Chủ tịch nước khẳng định, nửa thế kỷ đã trôi qua, song cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã để lại cho ngoại giao nhiều bài học quý báu. Đối với Việt Nam, đó là những bài học về vận dụng sáng tạo tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; bám sát phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn kiên định về mục tiêu chiến lược độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, song rất linh hoạt về sách lược. Đó còn là bài học về coi trọng sự phối chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế và các lĩnh vực trọng yếu khác trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; bài học về phát huy vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài - bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đối với bạn bè quốc tế, chiến thắng lịch sử 30/4/1975 và sự hồi sinh, phát triển mạnh mẽ của Việt Nam, là hình mẫu điển hình của một dân tộc kiên cường, bất khuất, yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu và rất nhân văn nhân nghĩa, nhân đạo, nhân tình.
Trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến nhiều thay đổi bước ngoặt, có tính lịch sử, Chủ tịch nước nêu rõ Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng tương lai, vận mệnh của đất nước gắn liền với hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới; đồng thời nhấn mạnh bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, Việt Nam nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; nhất quán chính sách quốc phòng “4 không”; sẵn sàng đóng góp tích cực và chủ động vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.
Chủ tịch nước kỳ vọng cuộc Hội thảo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức sẽ góp phần nhìn nhận, làm rõ những nhân tố, bài học, vai trò, và những đóng góp to lớn, nổi bật của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất và phát triển đất nước. Đồng thời, gợi mở những hướng đi thiết thực để Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế chung tay kiến tạo và gìn giữ hòa bình bền vững ở khu vực và trên thế giới.
Chủ tịch nước nhấn mạnh, Kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là một sự kiện chính trị trọng đại, là thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi chung của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới; thể hiện khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Năm tháng dù trôi qua, tính thời đại và thời sự sâu sắc của “câu chuyện Việt Nam” vẫn vẹn nguyên, tỏa sáng những giá trị cao đẹp của hành trình tìm kiếm hòa bình bền vững, đối thoại, hàn gắn vết thương chiến tranh, hòa hợp dân tộc, tái thiết, phát triển.
Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhân chứng lịch sử, nhà khoa học trong và ngoài nước đã tập trung thảo luận, chia sẻ nhiều bài học kinh nghiệm cả trong quá khứ, hiện tại về nhiều khía cạnh khác nhau liên quan tới vai trò lãnh đạo của Đảng trong chiến thắng mùa xuân lịch sử 30/4/1975; đóng góp của ngoại giao trong kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình và thống nhất đất nước; sự phối hợp giữa đấu tranh quân sự, ngoại giao trong Tổng tiến công mùa xuân năm 1975; những bài học rút ra từ ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đối với công tác đối ngoại hiện nay; hay vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, phát triển và nâng cao vị thế đất nước trong kỷ nguyên mới…
Các tham luận đã cung cấp rất nhiều thông tin, phân tích và luận giải nhiều vấn đề, gợi mở, đề xuất nhiều định hướng rất có giá trị, trong đó khẳng định lại những đóng góp to lớn của ngoại giao trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Việt Nam. Các đại biểu cũng chia sẻ kinh nghiệm, thực tiễn quốc tế trong việc bảo vệ và thúc đẩy hòa bình, giải quyết xung đột ở khu vực, quốc tế. Trong đó có nhiều bài học rút ra từ thực tiễn thống nhất đất nước của Việt Nam như hàn gắn vết thương chiến tranh, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai… Các tham luận cũng đã gợi mở nhiều sáng kiến, nội dung Ngoại giao Việt Nam có thể tham gia, đóng góp cho thúc đẩy hòa bình, ổn định ở khu vực./.