Tầm nhìn chiến lược của Nghị quyết 57 cho nông nghiệp Việt Nam: Khoa học công nghệ “góp sức” phát triển của ngành thủy sản
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự kiến đạt mốc 11 tỷ USD vào cuối năm nay bất chấp những biến động thị trường toàn cầu. Con số ấn tượng này không chỉ đến từ lợi thế tự nhiên mà còn là minh chứng rõ nét cho vai trò của Nghị quyết 57 với việc ứng dụng khoa học công nghệ trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của ngành.
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong những năm vừa qua khoa học công nghệ đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành thủy sản: 56 quy trình công nghệ tiên tiến được công nhận và áp dụng trong các khâu nuôi, sản xuất giống, khai thác, bảo quản, và chế biến; 23 giống cá, tôm được chọn tạo thành công, có các đặc tính vượt trội như tăng trưởng nhanh, tỷ lệ sống cao, và chất lượng thịt tốt hơn. Ví dụ, các giống tôm thẻ chân trắng kháng bệnh và sinh trưởng nhanh đã giúp tăng sản lượng đáng kể ở nhiều vùng nuôi trọng điểm; Năng suất nuôi trồng thủy sản trung bình tăng trưởng ổn định, đặc biệt với các đối tượng chủ lực như cá tra và tôm. Theo số liệu thống kê, năng suất cá tra đã có những cải thiện đáng kể nhờ áp dụng các quy trình nuôi mới, đạt hiệu quả cao hơn so với trước đây.
Ông Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: "Sự đầu tư vào nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ đã giúp ngành thủy sản vượt qua nhiều thách thức. Chúng ta đã có những bước tiến dài trong việc chủ động nguồn giống chất lượng, kiểm soát dịch bệnh hiệu quả hơn và nâng cao giá trị sản phẩm sau thu hoạch".
Trong bối cảnh dịch bệnh luôn là nỗi ám ảnh của người nuôi tôm, công nghệ sinh học đã mang đến những giải pháp đột phá. Việc ứng dụng chế phẩm sinh học (men vi sinh) đang dần thay thế kháng sinh hóa học. Ông Trần Văn Minh, một chủ hộ nuôi tôm tại Cà Mau cho biết: "Trước đây, tôi rất lo lắng về các bệnh đốm trắng, gan tụy trên tôm. Từ khi chuyển sang sử dụng chế phẩm sinh học định kỳ để xử lý nước và trộn vào thức ăn, ao nuôi của tôi sạch hơn, tôm khỏe mạnh hơn hẳn. Tỷ lệ tôm sống sót tăng lên, chi phí thuốc men giảm đáng kể, trung bình khoảng 20-30% so với trước. Năm nay, sản lượng của tôi đã tăng gần 15% so với năm ngoái, và điều quan trọng là tôi cảm thấy yên tâm hơn về chất lượng sản phẩm mình làm ra".
TS. Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, hoạt động khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy sản thời gian qua đã có khởi sắc, thu hút được các nguồn lực trong nước và quốc tế. Nhiều kết quả nổi bật được ghi nhận trong công tác chọn tạo giống, hoàn thiện quy trình nuôi, phát triển thức ăn thủy sản, tập trung vào các đối tượng nuôi chủ lực như tôm, cá tra, rô phi... Cụ thể, ngành đã chọn tạo được 35 giống thủy sản; xây dựng công thức thức ăn cho một số đối tượng như cá tra, tôm hùm, ốc hương, cá biển. Đã công nhận 64 quy trình công nghệ về nuôi, sản xuất giống, quản lý bệnh; ban hành 77 tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (TCVN, QCVN) về giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường cho các đối tượng tôm, cá nước ngọt, cá biển, nhuyễn thể…
Bên cạnh đó, công nghệ số hóa cũng đang len lỏi vào mọi khía cạnh của ngành. Các hệ thống cảm biến môi trường IoT giúp theo dõi các chỉ số như pH, oxy hòa tan, nhiệt độ, độ mặn theo thời gian thực. Dữ liệu này được phân tích bởi trí tuệ nhân tạo (AI), giúp đưa ra cảnh báo sớm về nguy cơ dịch bệnh và đề xuất các điều chỉnh kịp thời trong quy trình nuôi. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang triển khai các giải pháp quản lý trang trại tôm thông minh dựa trên AI tại một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Dữ liệu từ các cảm biến giúp dự đoán nguy cơ bùng phát dịch bệnh Vibrio hoặc các vấn đề về chất lượng nước. Nhờ đó, người nuôi có thể can thiệp sớm, giảm thiểu thiệt hại và tối ưu hóa việc sử dụng thức ăn, thuốc men, qua đó tiết kiệm chi phí khoảng 10-15% và tăng năng suất khoảng 5-10%”.
Các vùng nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển như Lâm Đồng, TP.HCM, Khánh Hòa, Quảng Ninh.
Những tháng cuối năm 2025, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang chứng kiến bước chuyển mạnh trong sản xuất và xuất khẩu thủy sản. Tại Thành phố Cần Thơ, chính quyền địa phương xác định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn; trong đó, tôm nước lợ đóng vai trò chủ lực, đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Thành phố Cần Thơ, năm 2025, Cần Thơ đặt mục tiêu đạt sản lượng 229.700 tấn tôm, hướng tới kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD.
Để đạt mục tiêu này, Thành phố Cần Thơ đã triển khai hàng loạt mô hình nuôi tôm công nghệ cao như ao lót bạt nhiều giai đoạn, semi biofloc, hệ thống quan trắc tự động và cơ giới hóa toàn bộ quy trình nuôi - từ cải tạo ao, cho ăn, giám sát môi trường đến thu hoạch. Đến cuối năm 2024, diện tích nuôi tôm lót bạt của thành phố đạt gần 8.700 ha, tăng 12% so với cùng kỳ.
Bên cạnh đó, ciệc áp dụng các công nghệ cấp đông IQF (Individual Quick Freezing - cấp đông nhanh từng sản phẩm), đóng gói MAP (Modified Atmosphere Packaging - bao gói trong môi trường khí cải biến) giúp giữ trọn hương vị, dinh dưỡng và kéo dài thời gian bảo quản sản phẩm. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh tại một hội nghị gần đây: "Thành tựu của ngành thủy sản không thể tách rời vai trò của khoa học công nghệ. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc chuyển giao công nghệ, phổ biến kiến thức đến người dân, đồng thời tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các giống mới, công nghệ phòng chống dịch bệnh và công nghệ chế biến sâu để gia tăng giá trị".
Những nỗ lực không ngừng trong việc ứng dụng khoa học công nghệ đang giúp ngành thủy sản Việt Nam không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế mà còn định vị thương hiệu thủy sản Việt Nam trên bản đồ thế giới, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả./.
- Nội dung: Trịnh Bộ
- Ảnh: Báo ảnh Việt Nam



















