Khám phá An Lăng, nơi an nghỉ của 3 vị vua triều Nguyễn
Vẻ đẹp độc đáo của lăng tẩm các vua nhà Nguyễn không chỉ phản ánh những giá trị đặc biệt về mặt kiến trúc, mĩ thuật cung đình Huế mà còn gợi nhớ tới tính cách, cuộc đời, số phận của mỗi vị vua cũng như những câu chuyện thăng trầm đôi khi có phần bí ẩn liên quan đến giai đoạn lịch sử mà nó ra đời và tồn tại. Và An Lăng chính là một câu chuyện như thế.
An Lăng là di tích cấp quốc gia, thuộc quần thể Di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Lăng được xây dựng trong hoàn cảnh lịch sử đất nước rối ren loạn trong, giặc ngoài và gắn liền với cuộc đời, số phận bi kịch của ba vua là vua Dục Đức (cha), vua Thành Thái (con) và vua Duy Tân (cháu).
An Lăng được đánh giá là khu lăng tẩm mang nhiều nét khác biệt so với các khu lăng tẩm khác ở Huế không chỉ ở mức độ quy mô, kiến trúc mà bởi nó còn là khu lăng mộ duy nhất của các vua nhà Nguyễn được xây dựng ngay trong nội đô thành phố Huế, tức rất gần với khu vực Hoàng thành, trong khi lăng mộ của các vua nhà Nguyễn khác được xây dựng ở xa kinh thành với quy mô hoành tráng trên những cuộc đất được tính toán lựa chọn rất khắt khe theo quan niệm kiến trúc và phong thủy đương thời.
An Lăng khởi đầu là nơi an táng của vua Dục Đức, vị vua thứ năm của nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay nằm trên đường Duy Tân thuộc phường An Cựu, thành phố Huế. Theo các nguồn sử liệu, năm 1889, con trai vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi vua lấy niên hiệu là Thành Thái, trở thành vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, đã cho xây dựng An Lăng để làm nơi an táng vua cha của mình.
Liên quan đến cái chết của vua Dục Đức và sự hình thành An Lăng, trong sử liệu và dân gian có truyền tụng một câu chuyện rằng, số là sau khi lên ngôi được 3 ngày thì vua Dục Đức bị triều thần phế ngôi với lí do trước đó vua dám mạo phạm xóa bỏ một đoạn văn trong di chiếu truyền ngôi của vua cha Tự Đức vì được cho là có những lời lẽ không hay nói về mình. Sau khi phế bỏ, vua bị tống giam vào ngục và bị bỏ đói cho đến chết. Khi vua chết lính bó chiếu gánh đưa ra vùng An Cựu để chôn, dọc đường chẳng may đứt gánh, thi hài vua rơi xuống đất nên lính sợ hãi chôn cất qua loa ngay tại chỗ. Về sau vua Thành Thái lên ngôi mới cho xây An Lăng để thờ vua cha và cũng xây đúng ngay chỗ ấy. Chuyện thực hư thế nào không rõ nhưng vị trí An Lăng ngày nay thì đúng là ở vùng An Cựu, ngay trong nội đô thành phố Huế, cách Đại Nội một quãng không xa, chừng 5-6 cây số nếu tính theo đường chim bay.
Lại nói về vua Thành Thái, người có công xây dựng nên An Lăng. Vua lên ngôi trị vì được 18 năm (1889-1907) thì bị truất ngôi do có tư tưởng và hoạt động chống Pháp. Con trai vua Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San được đưa lên ngai vàng, đặt niên hiệu Duy Tân, trị vì được 8 năm (1907-1916) thì bị giặc Pháp bắt cũng vì tội tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Sau đó hai cha con vua Thái Thái và vua Duy Tân bị Pháp đày đi biệt xứ sang đảo Réunion, một hòn đảo nhỏ ở Ấn Độ Dương. Năm 1953, vua Thành Thái được trở về nước, sống ở Sài Gòn. Ông mất vào năm 1954 và được hoàng tộc rước thi hài về chôn tại An Lăng. Còn vua Duy Tân sau đó qua đời vào năm 1945 bởi một tai nạn máy bay rất khó hiểu ở Trung Phi, thi hài của ông được chôn cất ở đó. Năm 1987, hài cốt nhà vua được cải táng từ Trung Phi đưa về chôn cạnh mộ vua Thành Thái ở An Lăng.
So với lăng tẩm khác của các vua nhà Nguyễn, An Lăng có kiến trúc đơn giản và khiêm tốn hơn. Toàn thể khu lăng mộ có diện tích khoảng 6 ha, trong đó có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ được chia làm hai khu vực nằm cách xa nhau khoảng hơn 50 mét, gồm: lăng (khu chôn thi hài của các nhà vua) và tẩm (nơi có điện thờ và các công trình nghỉ ngơi để phục vụ khi vua còn sống). Cả hai khu vực kiến trúc đều có la thành bao bọc chung quanh. Lăng quay mặt về hướng Tây Bắc, lấy cồn Phước Quả ở phía trước làm tiền án, lấy dòng khe chảy ngang trước mặt làm yếu tố "minh đường" và dùng ngọn núi Tam Thai ở xa đằng sau làm "hậu chẩm".
Ở khu lăng, ngay lối vào có một cổng vòm lớn xây bằng gạch, phía trên có các phù điêu trang trí và hình long phụng đắp nổi bằng sành sứ khá tinh xảo ở các góc mái. Sau cửa là một khoảng vườn rộng có các lan can bằng gạch bao quanh, ở giữa có một con đường gạch nhỏ chạy thẳng vào sân bái đình và một cổng tam quan lớn. Khác với các lăng tẩm tiền triều, bái đình của An Lăng không có tượng voi ngựa và quan quân đứng chầu. Duy chỉ có cổng tam quan trước sân bái đình là to lớn và bề thế hơn cả. Hai bên tam quan còn có thêm hai cổng phụ bằng gạch khá lớn. Phía sau tam quan chính là bửu thành, khu vực an trí các lăng mộ. Trung tâm của bửu thành có ngôi nhà Huỳnh Ốc được xây dựng theo lối cổ lầu trên một nền gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8 mét, trên lợp ngói hoàng lưu li, bờ nóc bờ quyết đắp hình rồng và phụng, nội thất trang hoàng đơn giản. Nhà Huỳnh Ốc chính là nhà bia nhưng bên trong không có bia đá, thay vào đó là một sập đá và kỉ đá dùng để bày hương án và bày biện đồ lễ mỗi khi cúng giỗ nhà vua. Hai bên tả, hữu nhà Huỳnh Ốc là mộ vua Dục Đức và mộ Hoàng hậu Từ Minh được xây khá đơn giản bằng 5 lớp đá vuông chồng lên nhau. Đáng chú ý là trong khu vực bửu thành có các bức bình phong và phù điêu trang trí hình chữ "Song Hỉ" đắp bằng sành sứ, mà chữ "Hỉ" trong Hán tự nghĩa là "vui mừng". Vì thế xem ra đây cũng là nét khác biệt trong quan điểm và lối trang trí của An Lăng. Cũng cần nói thêm là mộ của vua Thành Thái và vua Duy Tân không nằm cùng khu mộ với vua Dục Đức ở bửu thành mà được chôn riêng ở phía sau điện Long Ân ở khu vực tẩm.
Nếu như lăng là khu vực chôn cất thì tẩm là nơi thờ tự. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, ở An Lăng có đôi chút khác biệt bởi tẩm ngoài chức năng thờ tự còn là nơi chôn cất vua Thành Thái, vua Duy Tân và một số ngôi mộ khác thuộc hoàng tộc. Ngay trước lối vào khu tẩm điện có một cổng tam quan lớn, phía trong cổng có điện Long Ân. Điện Long Ân là công trình kiến trúc chính của khu vực này, đây là một tòa nhà lớn làm theo khuôn mẫu của các tòa cung điện thường thấy ở trong Đại Nội và là công trình kiến trúc bằng gỗ có giá trị nghệ thuật trong hệ thống các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở Huế. Bên trong điện có 3 án thờ đặt bài vị của các vua, gồm: vua Dục Đức và vợ ở giữa, vua Thành Thái bên trái và vua Duy Tân bên phải. Phía sau điện Long Ân ngày xưa là chốn hậu cung của các bà vợ vua, giờ đây được mở rộng và chỉnh trang thêm. Đó cũng là nơi yên nghỉ của hai vua Thành Thái và Duy Tân. Trong khu vực này còn có mộ của các bà vợ vua Thành Thái là bà Hoàng Quý Phi Nguyễn Gia Thị Anh, bà Nguyễn Thị Định (mẹ vua Duy Tân) và bà Khoan Phi Hồ Thị Phương; công chúa Lương Linh (em vua Duy Tân), bà Mai Thị Vàng (vợ vua Duy Tân) và một số lăng mộ của các hoàng thân anh em với vua Duy Tân. Ngoài ra, ở An Lăng còn có nhiều ngôi mộ khác thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn.
Sau gần 130 năm tồn tại, trước tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho khởi công trùng tu An Lăng. Đầu tháng 8 năm 2024, công tác trùng tu hoàn thành và An Lăng chính thức mở cửa đón khách tham quan.
Dù không có diện tích to lớn, hùng vĩ như lăng vua Gia Long; không bề thế, uy nghi như lăng vua Minh Mạng; không diễm lệ như lăng vua Tự Đức, nhưng An Lăng vẫn mang trong mình những nét đặc trưng rất riêng, mang dấu ấn rõ nét của một giai đoạn lịch sử rối ren của dân tộc. Với lối kiến trúc có phần đơn giản và khiêm tốn so với lăng tẩm các vua tiền triều, song An Lăng đã góp phần tạo nên một bức tranh chung phong phú và độc đáo về kiến trúc lăng mộ hoàng gia xứ Huế cũng như phản ánh những câu chuyện có giá trị lịch sử về quá trình thịnh - suy của triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam./.
- Bài, ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam