Tin tức

Ngân hàng Thế giới: Việt Nam cần lực lượng lao động có kỹ năng để chuyển mình thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao

Chiều 8/8, Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam đã ra mắt Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam tháng 8, chuyên đề đặc biệt “Giáo dục để tăng trưởng”.

Báo cáo đưa ra những phân tích của Ngân hàng Thế giới về xu hướng kinh tế vĩ mô gần đây ở Việt Nam; dự báo về triển vọng kinh tế của Việt Nam trong thời gian ngắn và trung hạn.

  Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam ra mắt Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam tháng 8. Ảnh: TTXVN  

* Kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng

Phát biểu tại lễ công bố, bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho biết, Báo cáo ra mắt vào thời điểm nền kinh tế toàn cầu đang trải qua hàng loạt cú sốc, bao gồm những gián đoạn liên quan đến dịch COVID-19 vẫn đang diễn ra và cú sốc về cung liên quan đến xung đột tại Ukraine. Nền kinh tế Việt Nam đến nay vẫn tương đối vững vàng và đang phục hồi mạnh mẽ sau đợt suy giảm do COVID-19 gây ra vào năm trước.

Theo báo cáo, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,4% trong nửa đầu năm 2022; dự kiến tăng trưởng vẫn khả quan từ nay đến cuối năm cũng như trong năm 2023.

Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh,bên cạnh những số liệu khả quan trên, Việt Nam phải đối mặt với rủi ro gia tăng bao gồm: lạm phát gia tăng; nguồn cung của các chuỗi giá trị toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn; tình trạng thiếu hụt lao động; các đợt bùng phát mới của dịch COVID-19, có thể cản trở phục hồi cả trong nước và trên thế giới. Nếu các nền kinh tế lớn và các thị trường xuất khẩu chủ lực như Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro và Trung Quốc suy giảm mạnh hơn so với dự kiến hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam có thể tiếp tục bị ảnh hưởng.

Báo cáo lần này phân tích những diễn biến kinh tế lớn trong nửa đầu năm 2021; đưa ra dự báo trung hạn của Ngân hàng Thế giới cho nền kinh tế Việt Nam, cùng với những rủi ro lớn trong nước và trên toàn cầu có thể ảnh hưởng đến triển vọng dự báo. Ngân hàng Thế giới cũng đưa ra những khuyến nghị chính sách để giúp Việt Nam giảm nhẹ tác động của những rủi ro và nền kinh tế có khả năng chống chịu tốt hơn trong thời gian tới.

* Việt Nam cần cải cách chính sách giáo dục sau phổ thông

Cũng giống như trong các ấn bản trước, tại Báo cáo này, Ngân hàng Thế giới đưa vào chương hai một chuyên đề về giáo dục sau phổ thông và giáo dục đại học, có tiêu đề "Giáo dục để tăng trưởng.”

Theo Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk, đây là chuyên đề hết sức quan trọng.

“Việt Nam cần có lực lượng lao động có kỹ năng để chuyển mình trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao vào năm 2035. Nếu Việt Nam muốn chuyển đổi mô hình kinh tế để trở thành nền kinh tế số, phát triển năng động, có khả năng chống chịu, lấy tri thức và năng suất làm động lực, chúng ta cần có lực lượng lao động với những kỹ năng của thế kỷ XXI để tiếp tục tăng trưởng”, bà Carolyn Turk phát biểu.

Theo Báo cáo, sau khi điều chỉnh về thời lượng học tập, số năm học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, chỉ đứng thứ hai sau Singapore trong số các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); còn chỉ số vốn con người là 0,69 so với mức tối đa bằng 1, thuộc hạng cao nhất trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp.

Tuy nhiên, về giáo dục sau phổ thông, bao gồm giáo dục đại học và dạy nghề, số liệu chưa được như mong muốn. Mặc dù hầu hết việc làm ở Việt Nam vẫn là những công việc thủ công đòi hỏi kỹ năng hoặc không đòi hỏi kỹ năng nhưng các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lao động có các kỹ năng lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên môn kỹ thuật.

Khảo sát về doanh nghiệp và kỹ năng của Ngân hàng Thế giới (năm 2019) cho thấy, 73% doanh nghiệp Việt Nam trong mẫu khảo sát cho biết gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có các kỹ năng lãnh đạo và quản lý; 54% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng cảm xúc - xã hội; 68% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng chuyên môn kỹ thuật theo vị trí việc làm cụ thể.

Ngân hàng Thế giới nhận định, vấn đề trên vừa liên quan đến chất lượng - sự phù hợp về kỹ năng và khả năng sử dụng sinh viên tốt nghiệp hiện nay, vừa liên quan đến số lượng - số sinh viên tốt nghiệp.

Về chất lượng, Việt Nam hiện đứng thứ ba từ dưới lên trong số 140 quốc gia có tên trong Chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2018, liên quan đến mức độ phù hợp về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học.

Còn về số lượng, chỉ có 10,2% dân số ở độ tuổi từ 25 trở lên có bằng cử nhân hoặc tương đương vào năm 2019. Tỷ lệ nhập học gộp ở cấp học sau phổ thông của Việt Nam là 28,6%, thấp hơn so với các quốc gia so sánh trong khu vực và thấp hơn mức bình quân là 55,1% ở các quốc gia thu nhập trung bình cao.

Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu sinh viên được tuyển sinh vào các cơ sở giáo dục sau phổ thông. Để đạt tỷ lệ tuyển sinh của các quốc gia thu nhập trung bình cao trong dài hạn, chỉ tiêu tuyển sinh phải được nâng lên đến khoảng 3,8 triệu sinh viên, gần gấp đôi so với con số năm 2019.

Nhằm thực hiện được con số  này, Ngân hàng Thế giới khuyến nghị các cấp có thẩm quyền của Việt Nam cần tiến hành cải cách cơ cấu và chính sách trong lĩnh vực giáo dục sau phổ thông./.

https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tin-van/ngan-hang-the-gioi-viet-nam-can-luc-luong-lao-dong-co-ky-nang-de-chuyen-minh-thanh-nen-kinh-te-thu-nhap-trung-binh-cao-305310.html


top