Cuộc đời và số phận của các thái giám thời nhà Nguyễn vốn là những câu chuyện đầy bí ẩn ở chốn hậu cung. Vì vậy, việc giải mã những ẩn số về khu lăng mộ thái giám duy nhất còn lại ở Huế có lẽ sẽ phần nào làm sáng tỏ thêm những điều liên quan đến thân phận của những con người đặc biệt này.
Cuộc đời và số phận của các thái giám thời nhà Nguyễn vốn là những câu chuyện đầy bí ẩn ở chốn hậu cung. Vì vậy, việc giải mã những ẩn số về khu lăng mộ thái giám duy nhất còn lại ở Huế có lẽ sẽ phần nào làm sáng tỏ thêm những điều liên quan đến thân phận của những con người đặc biệt này.
Lối cổng chính vào khu lăng mộ đượm vẻ u buồn và tăm tối. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Theo nhà Huế học Phan Thuận An: “Trong hoàng cung thường có đến hàng chục, hàng trăm bà để phục vụ cho hoàng đế. Đám cung phi mĩ nữ đông đảo ấy phải được tổ chức và quản lí chặt chẽ. Triều đình tuyển các thái giám vào nội cung để làm công việc ấy và một số việc khác, ví dụ sắp xếp việc "gặp gỡ" giữa vua với bà nào đó khi vua muốn, hoặc lo ghi chép ngày giờ vua "ngự dâm" cho đúng để tránh sự "lộn sòng" tai hại về sau.”.
Khu lăng mộ thái giám triều Nguyễn ở Huế ẩn chứa nhiều điều về số phận những con người đặc biệt của một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Tuy nhiên, lợi dụng địa vị ở trong hoàng cung, một số thái giám đã lộng quyền, gây ra nhiều chuyện không hay trong chính sự, cho nên vào năm 1836, vua Minh Mạng (trị vì 1820 - 1840), vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn, đã ban hành một tờ dụ để hạn chế đến mức tối đa những thói tệ này. Theo tờ dụ này thì tất cả các thái giám lúc bấy giờ chỉ được dùng để phục dịch trong hậu cung, chứ tuyệt đối không cho dự vào quan chức gì của triều đình cả.
Những dòng chữ còn sót lại trên di tích này hi vọng sẽ giúp làm sáng tỏ phần nào những câu chuyện đầy bí ẩn về cuộc đời và số phận của các thái giám thời nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Tờ dụ nêu rõ: "Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự tí vào, nếu kẻ nào vi phạm, quyết phải trừng trị nặng, không chút khoan tha. Trẫm đã ân cần tha thiết dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau. Về dụ này, chuẩn cho Quốc tử giám khắc vào đá.". Ngày nay, tấm bia đá khắc toàn văn bài dụ nghiêm khắc này vẫn còn nguyên vẹn trong một bi đình tại Văn Thánh (Văn Miếu - Huế).
Theo quy định của triều đình lúc bấy giờ, các thái giám thường ăn ở, phục dịch trong cung, nhất là trong Tử Cấm Thành, một số được cho lên phục vụ các bà cung phi góa bụa sống ở trên các lăng tẩm, vốn là nơi chôn cất nhà vua nhưng thường có xây thêm nhà cho cung phi và người phục dịch ở. Các thái giám mặc một loại y phục riêng, thường là áo dài bằng lụa màu xanh có thêu cái hoa ở trước ngực và đội loại mũ khác với mũ của các quan để dễ phân biệt.
Thời gian đã tàn phá và phủ màu rêu phong lên khu lăng mộ vốn đầy bí ẩn này. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Thời ấy, trong một lần lên thăm lăng Minh Mạng, cụ Vân Bình Tôn Thất Lương, một đại thần thời nhà Nguyễn, đã có làm bài thơ tả cảnh sinh hoạt của các bà và các thái giám ở đó như sau: “Dâng hương đầu bạc bốn năm cô, Quét lá áo xanh ba bốn chú.”. Ý nói việc hương khói ở lăng là do các hầu nữ, còn việc quét tước, dọn dẹp là của các thái giám. Như vậy có thể thấy, từ thời Minh Mạng, thái giám ở trong cung chỉ là hạng nô bộ chứ không thuộc hàng quan lại như ở các triều vua khác.
Vì là hạng nô bộ nên các thái giám khi ốm đau hoặc già yếu thì phải chuyển ra sống tại một tòa nhà nhỏ gọi là Cung Giám Viện ở phía Bắc ngoài Hoàng Thành, nay gần kế bên đường Đặng Thái Thân, Tp. Huế. Họ phải ở đó để chữa bệnh hoặc chờ chết, chứ không bao giờ được chết ở trong cung hoặc trên các lăng tẩm, vốn là những nơi thiêng liêng chỉ dành cho hoàng gia.
Tấm biển gỗ chỉ lối vào khu lăng mộ thái giám triều Nguyễn. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Lại nói về đặc điểm chung của các thái giám, họ là những người có vóc dáng, bộ điệu, nét mặt, giọng nói và tính tình hơi khác với người bình thường. Thời nhà Nguyễn, thái giám có hai loại là "giám sanh" và "giám lặt". Giám sanh là những người khi mới sinh ra đã có giới tính khác thường, không có bộ phận sinh dục rõ ràng, tục gọi là “phi nam phi nữ”; còn giám lặt là những người đàn ông tự nguyện thiến của quý của mình để được tuyển vào cung sống và phục dịch các cung tần mĩ nữ của nhà vua.
Vì mang thân phận là kẻ nô bộc, không con cái nối dõi, không họ hàng thân thích, nên lúc nằm xuống họ thường không có ai chăm lo mộ phần và hương khói. Xót thương cho số phận của mình và các đồng nghiệp, vào năm 1843, dưới thời Thiệu Trị (trị vì 1841 – 1847), một thái giám có tên là Châu Phước Năng đã dồn tiền của tích góp được xin trùng tu, sửa chữa Thảo Am đường và mở ở đó một cái nghĩa trang với mong muốn khi chết có nơi mà chôn cất, phụng thờ.
Cổng gạch, bình phong giờ đã rêu phong cổ kính. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Thảo Am đường vốn là một ngôi chùa nhỏ bằng tranh do thiền sư Nhất Định dựng trên núi Dương Xuân, cách kinh thành Huế chừng hơn chục cây số về phía Tây Nam, để làm nơi tu tập và phụng dưỡng mẹ già. Về sau, Thảo Am đường được vua Tự Đức (trị vì 1847 – 1883) đặt tên là chùa Từ Hiếu và cấp cho kinh phí để mở mang thành ngôi chùa lớn. Đến năm 1893, một số thái giám của triều Thành Thái (trị vì 1889 – 1907) cũng đóng góp thêm tiền của để tu sửa chùa và khu nghĩa trang một lần nữa.
Việc tạo lập nghĩa trang cạnh chùa Từ Hiếu cho thấy các thái giám triều Nguyễn tự thương cảm cho thân phận của mình nên muốn công đức nương nhờ cửa Phật để có nơi mai táng, khói hương khi nhắm mắt xuôi tay. Điều đó phần nào cho thấy cuộc đời và số phận cô đơn, buồn tủi của họ trong chốn cấm cung, nhất là khi thất thế hoặc ở tuổi xế chiều.
Bên trong chiếc cổng này là những câu chuyện buồn về cuộc đời của các thái giám. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Ngày nay, ngay bên cạnh chùa Từ Hiếu, ẩn mình dưới tán rừng thông u tịch, vẫn còn lại đó khu lăng mộ rộng chừng 1.000m2. Khu lăng mộ có tường gạch cao bao quanh, phía trước có một bức tường thấp, ở giữa có một cái bình phong long mã. Lùi vào bên trong một chút là một vòng tường gạch cao bao quanh, phía trước có ba cái cổng vòm khá bề thế. Cổng ở giữa không dùng để ra vào mà chính là nhà bia, nơi đây có một án thờ và một bia đá có nội dung nói về cuộc đời và nỗi niềm của các thái giám. Hai cổng hai bên mới dùng để ra vào.
Bên trong cổng có 25 ngôi mộ, trong đó có hai ngôi mộ gió, tức mộ không có hài cốt. Các ngôi mộ được chia thành 3 hàng, tương ứng với vai trò và sự đóng góp khác nhau của các thái giám. Hàng trên cùng có mộ của thái giám Châu Phước Năng, người có công ưưng ra quyên góp xây dựng nghĩa trang này.
Khu lăng mộ nằm trong khuôn viên vườn chùa Từ Hiếu với bóng rừng thông xanh che khuất gợi cảm giác buồn u tịch. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Trước các ngôi mộ đều có một tấm bia đá ghi rõ tên họ, quê quán, chức danh… của từng người. Rõ ràng nhất là ở hàng trong cùng, bia số 22 có khắc dòng chữ: “Hoàng triều Cung Giám viện, Quảng vụ Nguyễn Hầu, người ở thôn Nhi, xã Hoàng Công, tổng Hoàng Công, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội; mất ngày 15 tháng Giêng năm Khải Định thứ 5.”.
Đặc biệt, theo một số tài liệu cho biết, tấm bia đá ở cổng chính có nội dung ghi lại công lao, đóng góp cũng như những nỗi niềm tâm sự đầy xót xa của các thái giám triều Nguyễn. Trong đó có đoạn viết rằng: “Nhân nghĩ rằng nếu không lo kể về sau, khi còn sống thì nương nhờ chốn Phật, mà khi chúng ta chết thì biết nương tựa vào đâu? Nhận thấy ở góc thành phía Tây Nam có một đám đất, lấy gạch xây thành để về sau làm nơi chôn mộ. Ở đó làm một cái am lợp ngói để hằng năm thờ cúng, gần nơi cửa Phật mới là nơi thừa tự lâu dài và ngày thường cùng bằng hữu nếu ai ốm đau có chỗ ra vào dưỡng bệnh, khi nằm xuống có chỗ tống táng.”.
Toàn bộ khu lăng mộ có cả thảy 25 ngôi mộ, trong đó có hai ngôi mộ gió, tức mộ không có hài cốt. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Thế mới biết, với thân phận của kẻ nô bộc trong chốn cấm cung, không con cái nối dõi, không người thân thích nên các thái giám triều Nguyễn thường phải chịu cảnh sống đời éo le, cô quạnh, chết thì nương nhờ cửa Phật, khiến cho người đời không khỏi chạnh lòng xót xa. Vì lẽ đó, hằng năm cứ đến ngày rằm tháng 11, chùa Từ Hiếu lại tổ chức lễ hiệp kị, tức ngày giỗ chung để tưởng nhớ các thái giám triều Nguyễn.
Cổng vào khu lăng mộ. Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
Trải qua thời gian, khu lăng mộ nằm trong cô quạnh, bị lãng quên, ít người biết tới nên có lẽ vì thế mà nó còn giữ được khá vẹn nguyên cho tới bây giờ. Ngày nay, khu lăng mộ thái giám độc nhất vô nhị này được nhà chùa trông nom, hương khói và có người viếng thăm thường xuyên nên cũng đã bớt phần cô quạnh. Tuy nhiên trong tâm trí người tham quan nó vẫn như ẩn chứa điều gì đó về số phận buồn của những con người đặc biệt của một giai đoạn lịch sử đặc biệt./.
-
- Thực hiện: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/giai-ma-nhung-bi-an-khu-lang-mo-thai-giam-trieu-nguyen-o-hue-415074.html