Phóng sự chuyên đề

Bản hùng ca từ đá

Ở Cao nguyên đá Đồng Văn đá như có số phận. Trẻ em sinh ra trên đá, trai gái tỏ tình bên bờ rào đá, người dân trồng lương thực mưu sinh trên hốc đá và khi chết lại nằm trong mộ đá. Đá thành rừng, thành núi, thành thành luỹ bảo vệ người dân trong cuộc mưu sinh khắc nghiệt và chiến tranh vệ quốc. 17 dân tộc anh em nơi đây đã tôn vinh đá là vị thần linh thiêng bậc nhất. Họ biến đá thành văn hoá, thành của cải, thành sản phẩm du lịch và đưa vùng đất khô khát bậc nhất Việt Nam thành điểm sáng của du lịch châu Á.

15 năm trước, trong hơi ngà men say rượu ngô nhà “thần đá” Thào Mý Giàng ở xã Đồng Văn, tôi được ông kể về tín ngưỡng đá ở xứ sở đá. Thào Mý Giàng được người Mông ở Đồng Văn ví là “thần đá” bởi ông có biệt tài tìm đá để đẽo gọt xây nhà, chế tác làm vật dụng phục vụ sinh hoạt như cối, chày… và xếp tường đá nổi tiếng ở Đồng Văn. Ông là nhân vật chính trong bộ phim tài liệu “Bài ca trên đỉnh Tà Lùng” của đạo diễn Mạc Văn Chung đã giành nhiều giải thưởng lớn ở liên hoan phim trong nước và quốc tế.

Người Mông ở Cao nguyên đá Đồng Văn canh tác trên hốc đá. Tri thức Canh tác trên hốc đáđược công nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia năm 2014. Ảnh: Thông Thiện/Báo ảnh Việt Nam

Ông Giàng kể rằng, người Mông ở Cao nguyên đá Đồng Văn tin rằng, thuở ban đầu, trái đất chỉ là một khối bùn đất lõng bõng. Hai vị thần khổng lồ là ông Trày, bà Trày tạo ra đá và làm quả đất trở nên cứng cáp, bền vững. Bên cạnh đó, chính đá cọ vào nhau đem lại lửa chiếu sáng, sưởi ấm và làm chín thức ăn cho con người, đem lại hạt ngô mà sau này trở thành cây trồng quan trọng bậc nhất của người Mông.

Trong câu chuyện của ông Giàng, nhắc nhiều đến quá trình người Mông chinh phục đá để sinh tồn. Ông Giàng được cha ông truyền dạy cách tìm những tảng đá để có thể chế tác thành cối, chày, bậc thềm, trụ nhà… Ông Giàng bảo: “Đá ở đây nhiều vô kể nhưng không phải phiến đá nào cũng có thể chế tác thành vật dụng sinh hoạt được đâu, phải tìm những phiến đá già, không có vết đứt gãy, không pha màu thì mới làm được.”

Một ngôi của người Mông có tường rào đá bao quanh giữa trập trùng đá tai mèo trên Cao nguyên đá Đồng Văn.
Ảnh: Việt Cường/ Báo ảnh Việt Nam
 

Cũng theo ông Giàng, thế hệ thanh niên người Mông sinh trước năm 1980 đều biết chế tác, đẽo gọt đá. Người trẻ thì đẽo gọt đá thành những khối hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn để làm bệ đỡ cột nhà và bậc thềm. Người nhiều tuổi thì có thể đục đẽo thành cối xay ngô thành bột, thành những bông hoa đá trang trí.

Theo chỉ dẫn của ông Giàng, chúng tôi lần theo địa chỉ tìm đến họ Chứ ở bản Sủng Cáng để tìm hiểu về nghề đúc lưỡi cày trên đá. Lò rèn nhà ông Chứ Dung Xíu, một trong ba gia đình họ Chứ ở đây luôn đỏ lửa quanh năm. Với vốn tiếng Kinh lơ lớ, ông Xíu niềm nở bảo rằng: “Người Mông họ Chứ chúng tôi dùng nguyên liệu gang thông thường nhưng với kỹ thuật tạo khuôn đúc bằng đất sét kết hợp với bí quyết gia truyền để làm ra những chiếc lưỡi cày có hình dáng đặc biệt, chắc chắn, có thể lách đá, xới đất phục vụ việc trồng cấy”. Cứ đúc xong lưỡi cày nào thì vợ con ông lại mang xuống chợ Đồng Văn, chợ Mèo Vạc bán phục vụ người Mông trong vùng chinh phục đá mưu sinh.

Người Mông ở Đồng Văn thường khai thác đá vào mùa Xuân để làm tường rào và chế tác thành những công cụ phục vụ lao động và sinh hoạt hằng ngày. Ảnh: Báo ảnh Việt Nam
 

Đỉnh cao của việc chinh phục đá của 17 dân tộc anh em sinh sống trên Cao nguyên đá Đồng Văn là kỹ thuật canh tác trên hốc đá. Ông Vàng Mí Chớ, một nhân vật trong bộ phim tài liệu “Bài ca trên đỉnh Tà Lùng” chia sẻ: “Người Mông, người Tày, người Nùng… chúng tôi phải xếp bức tường đá dài bao quanh để tạo nên đám nương của mình, sau đó gùi đất từ nơi khác đổ vào. Ở khoảnh nương đó, đất bám vào hốc đá, tường rào đá giữ đất, giữ nước cho cây ngô, cây tam giác mạch tươi tốt.”

Nếu như Thào Mý Giàng được ví là “thần đá” thì ở Đồng Văn còn có ông Lầu Thèn Sò được người Mông ví như “thần lửa”, Vàng Mí Chớ được ví như “thần nước”. Cả ba người đàn ông này đã từng tham gia phá đá mở “Con đường hạnh phúc” dài 185 km chạy dọc Cao nguyên đá Đồng Văn. Con đường này hoàn thành vào năm 1965. Và ba người con ưu tú của dân tộc Mông này, người thì cụt tay, người thì cụt một chân, người thì bị mù một mắt trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 với lời thề “Sống bám đá, chết hóa đá thành bất tử”.

Bờ rào đá ở bản Lô Lô Chải. Ảnh: Báo ảnh Việt Nam

Tôi trở lại Cao nguyên đá Đồng Văn vào đầu năm 2025 thì được tin “thần lửa” Lầu Thèn Sò và “thần nước” Vàng Mí Chớ đã về với đá. Mộ của hai người con ưu tú dân tộc Mông cũng được đắp từ đá nằm kiêu hãnh trên dãy núi Tà Lùng. “Người Mông là vậy, chết là về với đá, để dành ít đất cho cây ngô, cây mận, cây đào, cây tam giác mạch nảy mầm, đơm hoa, kết trái”, “thần đá” Thào Mý Giàng bùi ngùi tâm sự.

Phố Cáo nổi tiếng Cao nguyên đá Đồng Văn bởi kỹ thuật xếp hàng rào đá. Ảnh: Tất Sơn/ Báo ảnh Việt Nam

Tạo hoá như bù trừ cho con người sinh tồn trên Cao nguyên đá Đồng Văn khi từ tháng 3 đến tháng 11 hằng năm cả một vùng đá khô khát thì những tháng mùa xuân lại khoác lên mình vẻ đẹp như miền cổ tích của hoa cải, hoa tam giác mạch, hoa mận, hoa đào.

Khách du lịch chiêm ngưỡng dốc Thẩm Mã trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Ảnh: Hoàng Hà/ Báo ảnh Việt Nam

Ông Thào Mý Giàng bảo rằng: “Cách đây khoảng 300 năm, người Mông di cư đến vùng đất này đã chọn những nơi có cây đào, cây mận cổ thụ mọc thành rừng để dựng bản. Người Mông chỉ mang theo các loại hạt ngô, hạt lanh, tam giác mạch và cải để gieo trồng làm lương thực trong công cuộc chinh phục đá xám.”. Có lẽ vì vậy mà nơi nào có những rừng đào, rừng mận và hoa tam giác mạch, hoa cải mọc giữa ngút ngàn đá xám thì nơi ấy chính là bản của người Mông.

Những kiến trúc đá độc đáo như bờ rào đá, hoa văn đá, công cụ đá… cộng với vẻ đẹp như cổ tích của những mùa hoa đã thu hút hàng triệu lượt khách trong và ngoài nước đến khám phá Cao nguyên đá Đồng Văn.

Khách du lịch chinh phục đèo Mã Pí Lèng. Ảnh: Hoàng Hà/ Báo ảnh Việt Nam
Thung lũng Sủng Là trên Cao nguyên đá Đồng Văn – phim trường của nhiều bộ phim nổi tiếng như Chuyện của Pao,
Lặng yên dưới vực sâu… Ảnh: Trần Hiếu/Báo ảnh Việt Nam

Chục năm nay năm nào nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Cao Bảo Long ở tận Tp. Hồ Chí Minh cũng lặn lội hơn 2.000 km lên Cao nguyên đá vào mùa xuân và ở đây hàng tháng trời để săn tìm những khoảnh khắc tuyệt diệu của cuộc sống. “Tôi ăn ở với gia đình người Mông ở Lũng Cẩm, đã thành người nhà của gia đình này rồi. Gia đình này có một homstay tên là Mộc. Mộc đặc biệt so với các bản du lịch khác bởi sự lặng lẽ, mộc mạc của cách bài trí và tấm lòng thơm thảo của chủ nhà.”

Homestay Mộc có những bức ảnh treo quanh tường cực kỳ ấn tượng. Đó là những bức ảnh về cánh đồng cải vàng, những thân đào già nua khoe sắc hoa trong nắng sớm và chân dung những con người “sống trên đá”… mà các nghệ sỹ nhiếp ảnh đã từng đến đây trú chân và đã quay lại tặng ảnh cho gia chủ. “Tấm ảnh cánh đồng cải vàng này tôi chụp vào mùa xuân năm trước, nay tôi phóng lớn tặng gia chủ để mỗi khi quay về Mộc tôi lại có cảm giác như về nhà của mình”, nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Cao Bảo Long thổ lộ.

Mùa hoa tam giác mạch trên Cao nguyên đá Đồng Văn thường bắt đầu từ tháng 10 – 12 hằng năm. Ảnh: Báo ảnh Việt Nam
 

Đồng Văn không chỉ thu hút khách du lịch, giới nhiếp ảnh mà còn là phim trường khổng lồ để các đạo diễn Việt Nam thoả sức sáng tạo trên đá. Với tinh thần “điện ảnh dẫn lối du lịch” những tác phẩm điện ảnh với những góc quay kinh điển như “Chuyện của Pao”, “Lặng yên dưới vực sâu”, “Bầu trời đỏ”, “Tết ở làng địa ngục”… đã đưa Cao nguyên đá đến gần hơn với du khách trong và ngoài nước.

 

Không chỉ điện ảnh và nhiếp ảnh, giới văn chương trong và ngoài nước cũng ấn tượng với du ký “Thương nhớ Đồng Văn” của Thuỷ Trần. Đồng Văn không chỉ có đá tai mèo, nhà trình tường, không chỉ có những con dốc khúc khuỷu, những cung đường thăm thẳm mà còn có những phiên chợ mang đậm chất vùng cao. Thuỷ Trần cho rằng, đến Đồng Văn nhất định bạn phải thu xếp để đến được một phiên chợ, để được say sưa trong tiếng đàn môi, để được ngồi bên nồi thắng cố bốc khói, uống bát rượu ngô, hút điếu thuốc lào cho ấm bụng. Và chợ đá Đồng Văn vẫn sừng sững, được quy hoạch để bảo tồn như một chứng tích về sự vươn lên phi thường của con người vùng đá.

Một homestay của người Lô Lô ở bản Lô Lô Chải có cấu trúc bậc thềm bằng đá. Ảnh: Thông Thiện/ Báo ảnh Việt Nam
Một homestay của người Mông ở bản Lao Xa. Ảnh: Nguyễn Thắng/ Báo ảnh Việt Nam
Biểu diễn khèn Mông ở chợ phiên Đồng Văn. Ảnh: Công Đạt/ Báo ảnh Việt Nam

Còn đối với “thần đá” Thào Mý Giàng, người đàn ông đã gần 92 tuổi, sống và chứng kiến trọn nỗi buồn vui với vùng Cao nguyên đá này thì nay đã mãn nguyện lắm rồi khi thấy quê hương mình giơ đã trở thành “kinh đô du lịch vùng Đông Bắc”. Nhìn về dãy núi đá Tà Lùng mờ xa, ông khẽ ngâm câu thành ngữ bằng tiếng Mông: “Không có ngọn núi nào cao hơn đầu gối người Mông" để nói về cái hùng chí chinh phục đá của những người đồng tộc./.

  • Bài:  Thông Thiện
  • Ảnh:  Nguyễn Thắng, Hoàng Hà, Thông Thiện, Tất Sơn, Việt Cường, Trần Hiếu,
    Công Đạt/Báo ảnh Việt Nam 
    và Tư liệu
  • Kỹ thuật, đồ họa:  Hương Thảo

https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/long-form/ban-hung-ca-tu-da-411045.html


top