Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Dũng cho rằng sự tham gia của khu vực tư nhân đã giúp thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ. Ảnh: Ngọc Quang - PV TTXVN tại Mỹ
Ngay cả trước khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam vẫn còn hiệu lực, một số công ty và nhà đầu tư Mỹ như Caterpillar Inc. và Citi, đều thành lập văn phòng tại Hà Nội vào năm 1993, đã có tầm nhìn xa để khám phá các cơ hội tại Việt Nam.
Sau khi bình thường hóa, các doanh nghiệp Mỹ vào Việt Nam với số lượng lớn hơn. Boeing đã hoạt động tại Việt Nam trong 30 năm và hiện đang mở rộng dấu ấn của mình trong hợp tác hàng không vũ trụ. Những tên tuổi lớn khác, như American Express, AT&T và Bank of America, đã sớm theo sau trong các lĩnh vực từ tài chính và viễn thông đến sản xuất và năng lượng. Ngày nay, phần lớn các thương hiệu lớn của Mỹ đều có mặt tại Việt Nam và duy trì quan hệ đối tác chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam, chính quyền tỉnh và các bộ/ngành chính phủ.
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Dũng cho rằng sự tham gia của khu vực tư nhân đã giúp thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Mỹ theo 4 cách sâu sắc. Thứ nhất, sự hiện diện của các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam là bằng chứng hữu hình của sự bình thường hóa - không chỉ là một thỏa thuận chính trị, mà còn là một thực tế sống động. Đầu tư của Mỹ đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút làn sóng quan tâm mới từ các doanh nghiệp và nhà đầu tư toàn cầu, và giúp đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và ý tưởng đã giúp thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, lòng tin và mối quan hệ bền chặt. Khi lợi nhuận được chia sẻ, lợi ích rộng lớn hơn của hai nước ngày càng đan xen vào nhau. Thông qua quá trình này, hợp tác khu vực tư nhân đã nổi lên như một mỏ neo của sự ổn định và an ninh trong mối quan hệ song phương nói chung.
Thứ ba, các công ty Mỹ không chỉ đóng góp thông qua thương mại mà còn bằng cách hỗ trợ phát triển tỉnh, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cung cấp đào tạo và hỗ trợ các nỗ lực nhân đạo. Những đóng góp này đã góp phần thay đổi cuộc sống và ở nhiều nơi cũng như bộ mặt của toàn bộ cộng đồng.
Và thứ tư, trong khi sự tiếp cận sớm giữa hai chính phủ đặt nền tảng cho hoạt động tham gia kinh doanh, thành công của các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam đã trở thành chất xúc tác cho hợp tác sâu sắc hơn giữa hai chính phủ.
Chia sẻ tại một hội thảo về vai trò của hợp tác công-tư (PPP) trong sự phát triển của 30 năm quan hệ Việt Nam – Mỹ, Đại sứ Nguyễn Quốc Dũng nêu rõ: “Mặt khác, các công ty Việt Nam đang ngày càng đầu tư vào Mỹ. Tập đoàn FPT, Tập đoàn Sovico, VinFast và một số công ty khác đã mở văn phòng hoặc quan hệ đối tác tạo ra việc làm và đóng góp trực tiếp vào nền kinh tế Mỹ. Thậm chí còn có một ngân hàng Việt Nam, SHB, đã công bố kế hoạch mở rộng hoạt động tại thị trường Mỹ.
Những khoản đầu tư này gắn kết chặt chẽ hơn nữa hai quốc gia của chúng ta.” Ông cho rằng ngày nay, Việt Nam đang tự tin bước vào kỷ nguyên phát triển mới, được thúc đẩy bởi công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và tăng trưởng bền vững. Những ưu tiên này đã tạo ra một môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp Mỹ phát huy thế mạnh tương đối của mình, đồng thời hưởng lợi từ sự tăng trưởng năng động của khu vực tư nhân Việt Nam.
Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Andrew Herrup nhận xét quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam không chỉ do chính phủ dẫn dắt mà còn được thúc đẩy bởi cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân hai nước. Ảnh: Ngọc Quang - PV TTXVN tại Mỹ
Theo Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Andrew Herrup, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam không chỉ do chính phủ dẫn dắt mà còn được thúc đẩy bởi cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân hai nước, là nền tảng để mở rộng kết nối nhân dân, thúc đẩy hợp tác giáo dục, củng cố an ninh và tăng cường hợp tác kinh tế. Ông cho rằng quan hệ đối tác kinh tế này là nền tảng cho mối quan hệ của hai nước, thúc đẩy đổi mới, phát triển và thịnh vượng. Tiến về phía trước, có nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác kinh tế Mỹ - Việt Nam về nhiều vấn đề, bao gồm chống chuyển tải bất hợp pháp, tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống lại các hoạt động lừa đảo trên mạng, quản lý hàng hóa thương mại và hàng hóa sử dụng kép, thu hút đầu tư chất lượng cao và xây dựng mạng lưới kỹ thuật số đáng tin cậy.
“Đặc biệt khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế kỹ thuật số do công nghệ thúc đẩy, đầu tư vào lưới điện và tăng cường vai trò của khu vực tư nhân như một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chúng tôi hy vọng sẽ thấy các công ty của chúng tôi đóng vai trò dẫn đầu trong giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam” - quan chức ngoại giao Mỹ nhận xét.
Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh PPP có thể là một đề xuất chiến thắng cho Việt Nam và khu vực tư nhân, khi được hình thành tốt, chúng sẽ dẫn đến cải thiện các dịch vụ công, chia sẻ rủi ro, tiếp cận tài chính của khu vực tư nhân, nâng cao hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Chính phủ Mỹ đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong việc soạn thảo luật PPP năm 2020 và sự hỗ trợ của Mỹ trong lĩnh vực này vẫn tiếp tục. Những nỗ lực đó sẽ tạo điều kiện cho các cơ hội trong cơ sở hạ tầng, năng lượng, kỹ thuật số và nhiều lĩnh vực khác./.
https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/tin-van/30-nam-binh-thuong-hoa-quan-he-viet-my-ket-noi-doanh-nghiep-–-gan-ket-quoc-gia-402335.html